Văn hoá Ý

Bài chi tiết: Văn hóa Ý
Thành phố Venezia được xây dựng trên 117 hòn đảo

Ý trải qua nhiều thế kỷ phân chia về chính trị và địa lý cho đến khi thống nhất vào năm 1861, do đó phát triển một nền văn hoá đặc trưng, được định hình bởi vô số các phong tục khu vực và các trung tâm quyền lực và bảo trợ cấp địa phương.[232] Vào thời Trung cổ và Phục hưng, một số triều đình cạnh tranh để thu hút các kiến trúc sư, nghệ sĩ và học giả giỏi nhất, qua đó sản sinh di sản lớn về các công trình kỷ niệm, hội họa, âm nhạc và văn học.[233]

Ý có 53 di sản thế giới UNESCO tính đến năm 2017, đứng đầu thế giới, và có các bộ sưu tập phong phú về nghệ thuật, văn hoá và văn học từ nhiều giai đoạn khác nhau. Quốc gia này có ảnh hưởng văn hoá rộng rãi trên thế giới, cũng một phần là do có nhiều người Ý xuất cư sang các quốc gia khác trong làn sóng di dân. Hơn thế, về tổng thể Ý có 100.000 công trình kỷ niệm các thể loại (bảo tàng, cung điện, toà nhà, tượng, nhà thờ, nhà trưng bày nghệ thuật, biệt thự, đài phun nước, nhà lịch sử và tàn tích khảo cổ học).[234]

Kiến trúc

Ý có phong cách kiến trúc rất rộng và đa dạng, không thể chỉ xác định theo giai đoạn mà còn phải theo khu vực, do Ý bị phân chia thành nhiều nhà nước khu vực cho đến năm 1861. Điều này tạo ra tính đa dạng cao độ và phạm vi chiết trung trong thiết kế kiến trúc.

Ý nổi tiếng vì có thành tựu kiến trúc đáng kể,[235] như xây dựng các khung vòm, mái vòm, và các cấu trúc tương tự vào thời La Mã cổ đại, lập nên phong trào kiến trúc Phục hưng vào cuối thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI, và là quê hương của kiến trúc Palladio, một phong cách xây dựng truyền cảm hứng cho các phong trào như kiến trúc Tân cổ điển, và ảnh hưởng đến các thiết kế mà giới quý tộc trên khắp thế giới dùng để xây nhà vùng thôn dã của họ, đáng chú ý là tại Anh, Úc và Hoa Kỳ từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX. Ý có một số công trình tinh tế nhất của kiến trúc phương Tây, như Đấu trường La Mã, Nhà thờ chính tòa Milano, Nhà thờ chính tòa Firenze, Tháp nghiêng Pisa và các thiết kế toà nhà tại Venezia.

Kiến trúc Ý cũng có ảnh hưởng rộng đến kiến trúc thế giới. Kiến trúc sư người Anh Inigo Jones được truyền cảm hứng từ thiết kế của các toà nhà và thành thị Ý, đã đưa các ý tưởng kiến trúc Phục hưng Ý về nước Anh thế kỷ XVII, lấy cảm hứng từ Andrea Palladio.[236] Ngoài ra, kiến trúc Italianate (kiểu Ý) phổ biến ở nước ngoài kể từ thế kỷ XIX, được sử dụng để mô tả công trình kiến trúc tại nước ngoài được xây theo một phong cách Ý, đặc biệt là phỏng theo kiến trúc Phục hưng.

Nghệ thuật thị giác

Bữa ăn tối cuối cùng (1494–1499), Leonardo da Vinci, Nhà thờ Đức Mẹ Grazie, Milano

Lịch sử nghệ thuật thị giác Ý là bộ phận của lịch sử hội họa phương Tây. Mỹ thuật La Mã chịu ảnh hưởng từ Hy lạp và phần nào có thể cho là một hậu duệ của hội họa Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, hội họa La Mã có các đặc trưng độc đáo quan trọng. Các bức hoạ La Mã duy nhất còn lại là các bức tranh tường, nhiều tác phẩm là trong các biệt thự tại vùng Campania thuộc miền nam. Các bức tranh này có thể nhóm thành bốn "phong cách" hoặc giai đoạn chính[237] và có thể bao gồm các mẫu đầu tiên về trompe-l'œil (đánh lừa thị giác), giả phối cảnh, và cảnh quan thuần tuý.[238]

Tranh bảng trở nên phổ biến hơn trong giai đoạn Romanesque, chịu ảnh hưởng mạnh của hình tượng Byzantine. Vào khoảng giữa thế kỷ XIII, mỹ thuật Trung cổ và hội họa Gothic trở nên hiện thực hơn, khi bắt đầu quan tâm đến miêu tả thể tích và phối cảnh tại Ý với Cimabue và sau đó là học trò của ông, Giotto. Từ thời Giotto trở đi, đối với sáng tác, các họa sĩ giỏi nhất cũng trở nên tự do và sáng tạo hơn nhiều. Họ được nhìn nhận là hai đại sư phụ Trung cổ về hội họa trong văn hoá phương Tây.

David của Michelangelo (1501–1504), Firenze

Thời kỳ Phục hưng Ý được nhiều người cho là thời đại hoàng kim của hội họa; đại khái trải dài từ thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XVII với ảnh hưởng đáng kể vượt ra ngoài biên giới nước Ý hiện đại. Các họa sĩ Ý như Paolo Uccello, Fra Angelico, Masaccio, Piero della Francesca, Andrea Mantegna, Filippo Lippi, Giorgione, Tintoretto, Sandro Botticelli, Leonardo da Vinci, Michelangelo Buonarroti, Raffaello, Giovanni BelliniTiziano Vecelli đưa hội họa lên tầm cao hơn thông qua sử dụng phối cảnh, nghiên cứu giải phẫu và cân xứng của con người, và thông qua đó họ phát triển một sự tinh tế chưa từng có trong các kỹ thuật vẽ và sơn. Michelangelo là một nhà điêu khắc tích cực từ khoảng 1500 đến 1520, các đại kiệt tác của ông gồm có David, Pietà, Moses. Các nhà điêu khắc Phục hưng nổi tiếng khác gồm Lorenzo Ghiberti, Luca Della Robbia, Donatello, Filippo BrunelleschiAndrea del Verrocchio.

Trong các thế kỷ XV và XVI, Phục hưng toàn thịnh dẫn đến nổi lên một kiểu mỹ thuật cách điệu được gọi là trường phái kiểu cách. Thay cho bố trí cân bằng và tiếp cận hợp lý về phối cảnh, những người kiểu cách tìm kiếm tính ổn định, tinh xảo, và hồ nghi. Khuôn mặt và điệu bộ không lo sợ của Piero della Francesca và Các trinh nữ của Raffaello điềm tĩnh bị thay thế bằng biểu cảm lo lắng của Pontormo và cường độ cảm xúc của El Greco. Trong thế kỷ XVII, trong số các họa sĩ vĩ đại nhất của Baroque Ý có Caravaggio, Annibale Carracci, Artemisia Gentileschi, Mattia Preti, Carlo Saraceni và Bartolomeo Manfredi. Sang thế kỷ XVIII, Rococo Ý chủ yếu lấy cảm hứng từ Rococo Pháp, do Pháp là quốc gia sáng lập phong cách đặc thù này, với các nghệ sĩ như Giovanni Battista TiepoloCanaletto. Điêu khắc tân cổ điển Ý tập trung vào các khía cạnh duy tâm của phong trào, với các tượng khoả thân của Antonio Canova.

Trong thế kỷ XIX, các họa sĩ lớn của phong cách lãng mạn Ý là Francesco Hayez, Giuseppe Bezzuoli và Francesco Podesti. Trường phái ấn tượng được đưa từ Pháp sang Ý bởi nhóm Macchiaioli, dẫn đầu là Giovanni Fattori và Giovanni Boldini; trường phái hiện thực bởi Gioacchino Toma và Giuseppe Pellizza da Volpedo. Trong thế kỷ XX, với chủ nghĩa vị lai chủ yếu thông qua các tác phẩm của Umberto BoccioniGiacomo Balla, Ý lại nổi lên thành một quốc gia sản sinh tiến hoá mỹ thuật trong hội họa và điêu khắc. Chủ nghĩa vị lai thành công nhờ các bức họa trừu tượng của Giorgio de Chirico, ông có ảnh hưởng mạnh đến chủ nghĩa siêu thực và các thế hệ nghệ sĩ đi theo.

Văn học và sân khấu

Văn học Ý bắt đầu sau khi thành lập Roma vào năm 753 TCN. Văn học Roma hay Latinh, đã và vẫn có ảnh hưởng cao độ trên thế giới, với nhiều nhà văn, nhà thơ, triết gia và sử gia, như là Pliny Già, Pliny Trẻ, Vergilius, Horace, Propertius, OvidiusLivius. Người La Mã cũng nổi tiếng vì truyền thống truyền khẩu, thơ, kịch và ngữ lục.[239] Trong những năm đầu của thế kỷ XIII, Francesco d'Assisi được các nhà phê bình văn học nhìn nhận là nhà thơ Ý đầu tiên, với bài ca tôn giáo Khúc ca Mặt trời.[240]

Dante, đứng giữa núi Purgatory và thành Firenze, trưng phần mở đầu nổi tiếng "Nel mezzo del cammin di nostra vita" của Thần khúc một cách chi tiết trong bức hoạ của Domenico di Michelino, 1465

Một tiếng nói khác của Ý bắt nguồn tại Sicilia. Trong triều đình của Hoàng đế Friedrich II, là người cai trị Vương quốc Sicilia trong nửa đầu thế kỷ XIII, thơ trữ tình phỏng theo các thể thức và đề tài Provençal được viết bằng một phiên bản tinh tế của thổ ngữ địa phương. Quan trọng nhất trong các nhà thơ này là Giacomo da Lentini, ông phát minh thể thơ sonnet, song tác giả sonnet nổi tiếng nhất thời kỳ đầu là Petrarca.[241]

Guido Guinizelli được cho là người lập ra Dolce Stil Novo, trường phái này đã đưa thêm một chiều hướng triết học vào thơ tình truyền thống. Sự thấu hiểu tình yêu mới này, biểu thị bằng một phong cách êm dịu, thanh khiết, có ảnh hưởng đến Guido Cavalcanti và nhà thơ Firenze Dante Alighieri, Dante là người lập cơ sở cho tiếng Ý hiện đại; tác phẩm vĩ đại của ông là Thần khúc, được nhận định nằm trong các tác phẩm văn học lỗi lạc nhất được sáng tác tại châu Âu vào thời Trung cổ. Hơn nữa, nhà thơ còn phát minh thể thơ khó terza rima.

Hai nhà văn vĩ đại nhất trong thế kỷ XIV là Francesco Petrarca và Giovanni Boccaccio tìm ra và phỏng theo các tác phẩm thời cổ đại, và tu dưỡng nhân cách nghệ thuật của mình. Petrarca đạt được danh tiếng thông qua bộ sưu tập thơ Il Canzoniere. Thơ tình của Petrarca giữ vai trò làm mẫu trong nhiều thế kỷ. Có ảnh hưởng ngang bằng là Decameron của Boccaccio, là một trong các bộ sưu tập phổ biến nhất về truyện ngắn từng được viết.[242]

Niccolò Machiavelli, người sáng lập khoa học chính trị hiện đại

Các tác giả Phục hưng Ý sáng tác một số tác phẩm quan trọng, Quân Vương của Niccolò Machiavelli là một trong các bài tiểu luận nổi tiếng nhất thế giới về khoa học chính trị và triết học hiện đại, trong đó lẽ phải thực sự quan trọng hơn bất kỳ tư tưởng trừu tượng nào. Tác phẩm quan trọng khác của giai đoạn này là Orlando Furioso của Ludovico Ariosto, phần mở rộng của tác phẩm lãng mạn còn dở dang Orlando Innamorato của Matteo Maria Boiardo, có lẽ là bài thơ có tinh thần thượng võ vĩ đại nhất từng được viết. Tác phẩm đối thoại Il Cortegiano của Baldassare Castiglione mô tả tư tưởng của quý ông triều đình hoàn hảo và của vẻ đẹp tâm hồn. Nhà thơ trữ tình Torquato Tasso trong La Gerusalemme liberata viết một sử thi Cơ Đốc giáo, sử dụng thể thức ottava rima, chú ý đến các quy tắc đồng nhất của Aristoteles.

Giovanni Francesco Straparola và Giambattista Basile lần lượt sáng tác Le piacevoli notti (1550–1555) và Lo cunto de li cunti/Pentamerone (1634), họ cho in một số bản truyện cổ tích đầu tiên được biết đến tại châu Âu.[243][244][245] Vào đầu thế kỷ XVII, một số kiệt tác văn học được tạo ra, như bài thơ thần thoại kéo dài L'Adone của Giambattista Marino. Giai đoạn Baroque cũng sản sinh văn xuôi khoa học dễ hiểu của Galileo, cũng như La città del Sole (thành phố Mặt trời) của Tommaso Campanella mô tả về một xã hội hoàn hảo do triết gia-tu sĩ cai trị. Đến cuối thế kỷ XVII, các viện sĩ Arcadia bắt đầu một phong trào nhằm khôi phục tính đơn giản và tính giản dị cổ điển cho thơ, như trong các vở kịch melo của Metastasio. Đến thế kỷ XVIII, nhà soạn kịch Carlo Goldoni tạo ra các vở kịch đầy kịch tính, nhiều vở phác hoạ tầng lớp trung lưu đương thời.

Minh hoạ Pinocchio trong Những cuộc phiêu lưu của Pinocchio của Carlo Collodi, là một hình tượng của văn học thiếu nhi.[246][247]

Chủ nghĩa lãng mạn trùng hợp với một số tư tưởng của Risorgimento- phong trào ái quốc có kết quả là thống nhất về chính trị và tự do cho Ý khỏi sự chi phối của ngoại bang. Các nhà văn Ý đi theo chủ nghĩa lãng mạn vào đầu thế kỷ XIX. Thống nhất nước Ý được báo trước bởi các nhà thơ Vittorio Alfieri, Ugo FoscoloGiacomo Leopardi. I promessi sposi (phối ngẫu hứa hôn) của nhà văn lãng mạn hàng đầu tại Ý Alessandro Manzoni là tiểu thuyết lịch sử Ý đầu tiên ca ngợi các giá trị Cơ Đốc giáo về tư pháp và Thượng đế, và nó được cho là tiểu thuyết bằng tiếng Ý nổi tiếng nhất và được đọc nhiều nhất.[248]

Đến cuối thế kỷ XIX, một phong trào văn học hiện thực mang tên Verismo giữ một vai trò lớn trong văn học Ý; Giovanni VergaLuigi Capuana là các nhân tố chính. Trong cùng giai đoạn, Emilio Salgari viết các tác phẩm phiêu lưu hành động và là một nhà tiên phong về khoa học viễn tưởng, ông cho phát hành loạt tiểu thuyết Sandokan về một kẻ cướp biển hư cấu trên khắp biển Đông.[249] Một phong trào gọi là chủ nghĩa vị lai ảnh hưởng đến văn học Ý vào đầu thế kỷ XX. Filippo Tommaso Marinetti viết Manifesto del Futurismo (tuyên ngôn chủ nghĩa vị lai), kêu gọi sử dụng ngôn ngữ và phép ẩn dụ để tôn vinh tốc độ, tính năng động, và tính mãnh liệt của thời kỳ máy móc.[250]

Các nhân vật văn học hiện đại là Gabriele D'Annunzio, nhà thơ dân tộc chủ nghĩa Giosuè Carducci đoạt giải Nobel năm 1906, nhà văn hiện thực Grazia Deledda đoạt giải Nobel năm 1926, tác giả sân khấu hiện đại Luigi Pirandello vào năm 1936, nhà văn truyện ngắn Italo Calvino vào năm 1960, các nhà thơ Salvatore Quasimodo vào năm 1959 và Eugenio Montale vào năm 1975, Umberto Eco vào năm 1980, và tác giả trào phúng và sân khấu Dario Fo vào năm 1997.[251] Tiểu thuyết Những cuộc phiêu lưu của Pinocchio năm 1883 của Carlo Collodi là tác phẩm cổ điển cho thiếu nhi nổi danh nhất của một tác giả Ý và là sách phi tôn giáo được dịch nhiều nhất trên thế giới.[246] Các triết gia Ý xuất sắc gồm có Cesare Beccaria, Giordano Bruno, Benedetto Croce, Marsilio FicinoGiambattista Vico.

Sân khấu Ý có nguồn gốc từ truyền thống La Mã và nó lại chịu ảnh hưởng mạnh từ người Hy Lạp; giống nhiều thể loại văn học khác, các nhà soạn kịch La Mã có xu hướng phỏng theo và dịch lại từ người Hy Lạp. Chẳng hạn, Phaedra của Seneca dựa trên tác phẩm của Euripides, và nhiều hài kịch của Plautus là bản dịch trực tiếp từ các tác phẩm của Menander. Trong thế kỷ XVI và vào đến thế kỷ XVIII, Commedia dell'arte là một thể loại sân khấu ứng tác, và vẫn được trình diễn cho đến nay. Các đoàn kịch rong sẽ dựng một sân khấu ngoài trời và tạo ra sự thích thú bằng các hình thức tung hứng, nhào lộn, và đặc trưng hơn là các vở kịch hài hước dựa trên trình diễn của một nhân vật, gọi là canovaccio.

Âm nhạc

Giacomo Puccini là một nhà soạn nhạc người Ý với các vở opera như La bohème, Tosca, Madama ButterflyTurandot nằm vào hàng được trình diễn thường xuyên nhất trên toàn cầu trong vốn tiết mục tiêu chuẩn[252][253]

Từ dân gian cho đến cổ điển, âm nhạc luôn giữ một vai trò quan trọng trong văn hoá Ý. Các nhạc cụ gắn với âm nhạc cổ điển như piano và violon được phát minh tại Ý, và nhiều thể loại âm nhạc cổ điển đang thịnh hành như giao hưởng, concerto và sonata có thể truy nguồn gốc đến các phát kiến của âm nhạc Ý thế kỷ XVI và XVII.

Các nhà soạn nhạc nổi tiếng của Ý gồm có các nhà soạn nhạc thời Phục hưng (thế kỷ XV–XVII) PalestrinaMonteverdi, các nhà soạn nhạc thời Baroque (1600–1760) Scarlatti, CorelliVivaldi, các nhà soạn nhạc thời cổ điển (1730–1820) PaganiniRossini, và các nhà soạn nhạc thời lãng mạn (1815–1910) VerdiPuccini. Các nhà soạn nhạc hiện đại của Ý như BerioNono đã chứng tỏ vị thế quan trọng trong phát triển âm nhạc thể nghiệmđiện tử. Truyền thống âm nhạc cổ điển vẫn có vị thế mạnh tại Ý, minh chứng là danh tiếng của vô số các nhà hát opera như La Scala tại Milano và San Carlo tại Napoli, và các nghệ sĩ trình diễn như nghệ sĩ piano Maurizio Pollini và sau này là giọng nam cao Luciano Pavarotti, song người Ý cũng được tán thưởng không kém về phát triển sân khấu âm nhạc đương đại.

Luciano Pavarotti là một trong các giọng nam cao có ảnh hưởng nhất mọi thời đại

Ý nổi tiếng trong vai trò là nơi khai sinh của opera.[254] Opera Ý được cho là hình thành vào đầu thế kỷ XVII, tại các thành phố như Mantova và Venezia.[254] Về sau, các tác phẩm và các vở opera được soạn ra bởi các nhà soạn nhạc người Ý bản địa trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, như Rossini, Bellini, Donizetti, VerdiPuccini, nằm vào hàng nổi tiếng nhất từng được viết và hiện nay chúng được trình diễn trong các nhà hát opera khắp thế giới. Nhà hát opera La Scala tại Milano nổi danh khi nằm vào hàng xuất sắc nhất thế giới. Các ca sĩ opera Ý nổi tiếng gồm có Enrico Caruso và Alessandro Bonci.

Jazz được truyền sang Ý vào đầu thập niên 1920, nó có được chỗ đứng rất mạnh mẽ tại Ý, và vẫn phổ biến bất chấp các chính sách bài ngoại của chế độ phát xít. Ngày nay, các trung tâm nổi tiếng nhất về nhạc jazz tại Ý là Milano, Roma và Sicilia. Sau đó, Ý đi tiên phong về phong trào progressive rock và pop vào thập niên 1970, có các ban nhạc như PFM, Banco del Mutuo Soccorso, Le Orme, Goblin và Pooh. Trong giai đoạn này cũng diễn ra đa dạng hoá điện ảnh Ý, và các phim của xưởng Cinecittà có các bản dàn bè phức hợp của các nhà soạn nhạc như Ennio Morricone. Sân khấu hip hop Ý bắt đầu vào đầu thập niên 1990 với bộ đôi Articolo 31, chủ yếu chịu ảnh hưởng của East Coast rap.

Ý cũng là một quốc gia quan trọng trong quá trình phát triển của disconhạc điện tử, disco Ý có đặc điểm là âm thanh vị lai và sử dụng thường xuyên synthesisertrống máy, là một trong các thể loại nhạc nhảy điện tử sớm nhất, cùng với các dạng châu Âu của disco ngoài Euro disco ra (về sau ảnh hưởng đến một số thể loại như EurodanceNu-disco). Các DJ và remixer nổi tiếng của Ý gồm Benny Benassi, Gigi D'Agostino, và Gabry Ponte, thành viên của nhóm Eiffel 65.

Các nhà sản xuất như Giorgio Moroder, người từng thắng ba giải Oscar, có ảnh hưởng lớn đến bước phát triển của nhạc dance điện tử. Ngày nay, nhạc pop Ý được biểu diễn thường niên trong Nhạc hội Sanremo, có vai trò là nguồn cảm hứng cho cuộc tranh tài ca hát Eurovision, và Lễ hội Hai thế giới tại Spoleto. Các ca sĩ như Mina, Andrea Bocelli, Laura Pausini, Eros RamazzottiTiziano Ferro được quốc tế tôn vinh.

Điện ảnh

Liên hoan phim Venezia là liên hoan phim lâu năm nhất trên thế giới, và là một trong ba liên hoan phim lớn cùng với CannesBerlin[255][256]

Lịch sử điện ảnh Ý bắt đầu một vài tháng sau khi anh em nhà Lumière bắt đầu các cuộc triển lãm hình ảnh động. Bộ phim đầu tiên của Ý kéo dài trong vài giây, thể hiện Giáo hoàng Leo XIII ban phúc cho máy quay. Ngành điện ảnh Ý ra đời trong khoảng giữa năm 1903 và 1908 với ba công ty: Società Italiana Cines, Ambrosio Film và Itala Film. Các công ty khác nhanh chóng tiếp bước tại Milano và tại Napoli. Trong một thời gian ngắn, các công ty đầu tiên này đạt được chất lượng sản phẩm khá, và các bộ phim nhanh chóng được bán ra bên ngoài nước Ý. Điện ảnh sau đó được Benito Mussolini sử dụng, ông cho lập xưởng phim Cinecittà trứ danh tại Roma để sản xuất phim tuyên truyền phát xít cho đến Chiến tranh thế giới thứ hai.[257]

Sau chiến tranh, điện ảnh Ý được công nhận và được xuất khẩu rộng rãi cho đến khi xảy ra một cuộc suy thoái nghệ thuật khoảng thập niên 1980. Các đạo diễn phim Ý nổi tiếng trong giai đoạn này gồm có Vittorio De Sica, Federico Fellini, Sergio Leone, Pier Paolo Pasolini, Luchino Visconti, Michelangelo AntonioniRoberto Rossellini; Fellini được công nhận là một trong các nhà làm phim vĩ đại nhất và có ảnh hưởng nhất mọi thời đại.[258][259] Các bộ phim quý báu phải kể đến như Ladri di biciclette (kẻ trộm xe đạp), La dolce vita (cuộc sống ngọt ngào), , Il buono, il brutto, il cattivo (Thiện, ác, tà) và C'era una volta il West (Thuở ấy ở miền Viễn Tây). Giữa thập niên 1940 đến đầu thập niên 1950 là thời cực thịnh của phim tân hiện thực, phản ánh điều kiện yếu kém của nước Ý thời hậu chiến.[260][261]

Lối vào xưởng phim Cinecittà tại Roma, là xưởng phim lớn nhất tại châu Âu

Do Ý phát triển thịnh vượng hơn vào thập niên 1950, một dạng tân hiện thực gọi là tân hiện thực màu hồng được tiếp bước, sau đó là các thể loại phim khác như "gươm và dép/peplum" với các phim cao bồi Ý, chúng phổ biến trong các thập niên 1960 và 1970. Các diễn viên như Sophia Loren, Giulietta MasinaGina Lollobrigida trở thành ngôi sao điện ảnh quốc tế trong giai đoạn này. Các câu chuyện tình ái giật gân kiểu Ý, còn gọi là giallo, được sản xuất bởi các đạo diễn như Mario BavaDario Argento trong thập niên 1970, chúng cũng ảnh hưởng đến thể loại kinh dị trên thế giới. Trong những năm gần đây, màn ảnh Ý chỉ thỉnh thoảng mới được quốc tế chú ý, với các bộ phim như La vita è bella (Cuộc sống tươi đẹp) của đạo diễn Roberto Benigni, Il Postino (người đưa thư) với Massimo TroisiLa grande bellezza (Đời sống thượng lưu) của đạo diễn Paolo Sorrentino.

Xưởng phim Cinecittà hiện là cơ sở sản xuất phim và truyền hình lớn nhất tại châu Âu lục địa và là trung tâm của điện ảnh Ý, là nơi sản xuất một lượng lớn phim bán vé chạy nhất tại Ý, và là một trong các cộng đồng sản xuất phim lớn nhất thế giới. Trong thập niên 1950, một số tác phẩm quốc tế được sản xuất tại xưởng phim này khiến cho Roma được mệnh danh là "Hollywood trên dòng Tevere". Xưởng tham gia sản xuất trên 3.000 tác phẩm, trong đó 90 phim được đề cử một giải Oscar và 47 phim đã chiến thắng, từ một số tác phẩm kinh điển điện ảnh đến các phim đoạt giải gần đây (như Ben-Hur, Cleopatra, Romeo và Juliet, The English Patient (Bệnh nhân người Anh), Gladiator (Võ sĩ giác đấu), The Passion of the Christ (Cuộc thương khó của Giêsu) và Gangs of New York) (Băng đảng New York).[262]

Ý là quốc gia nhận được nhiều giải nhất trong hạng mục phim ngoại ngữ hay nhất của giải Oscar, từng thắng 14 giải, 3 giải đặc biệt và 31 đề cử. Tính đến năm 2016, các phim Ý cũng từng giành được 12 giải Cành cọ vàng của Liên hoan phim Cannes (đứng thứ hai), 11 giải Sư tử vàng và 7 giải Gấu vàng.

Thể thao

Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý có biệt danh là Azzurri, đội hình năm 2012.

Môn thể thao phổ biến vượt trội tại Ý là bóng đá.[263] Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý (biệt danh Gli Azzurri – "Thiên thanh") nằm trong số các đội tuyển thành công nhất thế giới với bốn chức vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới (1934, 1938, 19822006).[264] Các câu lạc bộ của Ý xếp thứ hai châu lục về số cúp châu Âu giành được. Giải bóng đá câu lạc bộ hạng cao nhất của Ý là Serie A, giải được xếp hạng tốt thứ tư tại châu Âu và có hàng triệu người hâm mộ khắp thế giới theo dõi.

Các môn thể thao đồng đội phổ biến khác tại Ý bao gồm bóng chuyền, bóng rổ và rugby. Các đội tuyển bóng chuyền quốc gia Ý của namnữ thường được đánh giá nằm vào hàng mạnh nhất thế giới. Thành tích tốt nhất của đội tuyển bóng rổ quốc gia Ý là huy chương vàng tại giải vô địch châu Âu năm 1983 và 1999, và huy chương đồng tại Thế vận hội năm 2004. Lega Basket Serie A được nhận định rộng rãi là một trong các giải đấu cạnh tranh nhất tại châu Âu. Rugby union có mức phổ biến cao, đặc biệt là tại miền bắc, đội tuyển quốc gia của Ý tranh tài tại giải vô địch Sáu nước, và thường xuyên thi đấu tại giải rugby thế giới. Đội tuyển bóng chuyền nam quốc gia Ý từng giành được ba giải vô địch thế giới trong ba kỳ liên tiếp 1990, 1994 và 1998 và từng giành ba huy chương bạc tại Thế vận hội năm 1996, 2004, 2016.

Ý cũng có truyền thống lâu dài và thành công trong các môn thể thao cá nhân. Đua xe đạp là môn thể thao rất quen thuộc tại đây.[265] Ý là nước giành chiến thắng nhiều thứ hai sau Bỉ trong giải vô địch thế giới UCI. Giro d'Italia là một giải đua xe đạp được tổ chức vào tháng 5 hàng năm, đây là một trong ba giải lớn cùng với Tour de FranceVuelta a España, mỗi giải kéo dài khoảng ba tuần. Trượt tuyết đổ dốc cũng rất phổ biến tại Ý, và quốc gia Nam Âu này là một điểm trượt tuyết phổ biến quốc tế, với các khu nghỉ dưỡng trượt tuyết.[266] Các vận động viên trượt tuyết của Ý đạt được thành tích tốt tại Thế vận hội Mùa đông, Giải vô địch trượt tuyết đổ đèo thế giới, và Giải vô địch thế giới. Có nhiều người Ý đi theo môn quần vợt, đây là môn thể thao được chơi nhiều thứ tư trong nước.[267] Ý Mở rộng hình thành vào năm 1930 và là một trong các giải đấu quần vợt danh giá nhất thế giới. Các vận động viên quần vợt chuyên nghiệp của Ý từng vô địch Davis Cup vào năm 1976 và Fed Cup vào năm 2006, 2009, 2010 và 2013. Thể thao ô tô cũng rất phổ biến tại Ý, quốc gia này vượt trội về số lần vô địch thế giới MotoGP. Scuderia Ferrari của Ý là đội lâu năm nhất còn tồn tại trong giải đua Grand Prix, đội này xếp hạng nhất về số lần vô địch giải Công thức 1.

Ý có lịch sử thành công tại Thế vận hội, tham gia đại hội từ kỳ đầu tiên và góp mặt trong 47/48 lần tổ chức. Tính đến năm 2016, Các vận động viên Ý giành được 577 huy chương tại các kỳ thế vận hội mùa hè, và 114 huy chương tại các kỳ thế vận hội mùa đông, tổng cộng đạt 691 huy chương với 243 huy chương vàng, xếp thứ 6 về tổng số huy chương. Ý từng đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1960 tại Roma, Thế vận hội Mùa đông 1956 tại Cortina d'Ampezzo, Thế vận hội Mùa đông 2006 tại Torino và sắp tới sẽ tổ chức Thế vận hội Mùa đông 2026 tại Milano và Cortina d'Ampezzo.

Thời trang

Cửa hàng Prada tại Milano

Thời trang Ý có truyền thống lâu dài, và được nhìn nhận thuộc vào hàng quan trọng nhất thế giới. Milano, Firenze và Roma là các thủ phủ thời trang lớn của Ý. Theo xếp hạng năm 2013 của Global Language Monitor, Roma xếp thứ sáu toàn cầu còn Milano xếp thứ 12.[268] Một số nhãn hiệu thời trang lớn của Ý là Gucci, Armani, Prada, Versace, Dolce & Gabbana, cùng các nhãn hiệu khác chúng được đánh giá là nằm trong số các hãng thời trang tinh tế nhất trên thế giới. Tạp chí thời trang Vogue Italia được cho là một trong các tạp chí thời trang có danh tiếng nhất trên thế giới.[269]

Ý cũng xuất sắc trong lĩnh vực thiết kế, đáng chú ý là thiết kế nội thất, thiết kế kiến trúc, thiết kế công nghiệp và thiết kế đô thị. Quốc gia này sản sinh một số nhà thiết kế nội thất nổi tiếng như Gio PontiEttore Sottsass, và các cụm từ tiếng Ý như "Bel Disegno" và "Linea Italiana" đã gia nhập từ vựng của ngành thiết kế nội thất.[270] Máy giặt và tủ lạnh của Zanussi là các ví dụ về hàng hoá trắng và nội thất cổ điển của Ý,[271] hay là sofa "New Tone" của Atrium,[271] và tủ sách kiểu hậu hiện đại của Ettore Sottsass, lấy cảm hứng từ bài hát "Stuck Inside of Mobile with the Memphis Blues Again" của Bob Dylan.[271] Ngày nay, Milano và Torino là các thành phố đứng đầu toàn quốc về thiết kế kiến trúc và thiết kế công nghiệp. Milano có hội chợ thiết kế lớn nhất châu Âu mang tên là Fiera Milano.[272] Milano cũng có các sự kiện và địa điểm thiết kế và liên quan đến kiến trúc với quy mô lớn, như "Fuori Salone" và Salone del Mobile, và là nơi sinh sống của các nhà thiết kế như Bruno Munari, Lucio Fontana, Enrico Castellani và Piero Manzoni.[273]

Ẩm thực

Bài chi tiết: Ẩm thực Ý
Một số loại đồ ăn của Ý: pizza (Margherita), pasta (Carbonara), espressogelato

Ẩm thực Ý phát triển qua nhiều thế kỷ biến động về xã hội và chính trị, có nguồn gốc từ thế kỷ IV TCN. Bản thân ẩm thực Ý chịu ảnh hưởng mạnh từ ẩm thực Etrusca, Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại, Byzantine và Do Thái.[274] Các biến đổi đáng kể diễn ra cùng với sự kiện khám phá Tân thế giới, khi có nhiều mặt hàng được truyền đến Ý như khoai tây, cà chua, ớt chuông và ngô, ngày nay chúng là trung tâm của ẩm thực Ý song từ thế kỷ XVIII về trước vẫn chưa đủ số lượng.[275][276] Ẩm thực Ý được chú ý do có tính đa dạng vùng miền,[277][278][279] nhiều khác biệt về vị, và được cho là một trong các nền ẩm thực phổ biến nhất thế giới,[280] có ảnh hưởng mạnh ở nước ngoài.[281]

Các dạng đồ ăn Địa Trung Hải là cơ sở của ẩm thực Ý, phong phú về mì ống, cá, rau quả và có đặc trưng là cực kỳ đơn giản và đa dạng, nhiều món ăn chỉ có bốn đến tám nguyên liệu.[282] Quá trình nấu nướng của người Ý dựa chủ yếu vào chất lượng của nguyên liệu thay vì chuẩn bị công phu.[283] Các món ăn và công thức chế biến thường bắt nguồn từ truyền thống địa phương và gia đình thay vì được các đầu bếp tạo ra, do đó nhiều phương pháp thích hợp cho nấu nướng tại nhà, đây là một trong các lý do chính đằng sau việc ẩm thực Ý ngày càng phổ biến trên toàn cầu, từ châu Mỹ[284] đến châu Á.[285] Các nguyên liệu và món ăn biến đổi nhiều theo khu vực.

Một yếu tố chủ chốt cho thành công của ẩm thực Ý là nó phụ thuộc nhiều vào các sản phẩm truyền thống; Ý có nhiều đặc sản truyền thống nhất được bảo hộ theo pháp luật Liên minh châu Âu.[286] Pho mát, salumirượu vang là các bộ phận chính của ẩm thực Ý, với nhiều biến hoá theo khu vực và chỉ dẫn bảo hộ địa lý, và cùng với cà phê (đặc biệt là espresso) tạo thành một phần rất quan trọng của văn hoá sành ăn Ý.[287] Các món tráng miệng có truyền thống lâu dài trong việc kết hợp các hương vị địa phương như cam chanh, hồ trănhạnh đào với các loại pho mát ngọt như mascarponericotta hoặc các vị ngoại lai như cacao, vani, quế. Gelato,[288] tiramisu[289]cassata nằm trong số các món tráng miệng và bánh ngọt nổi tiếng nhất của Ý.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ý http://driving.ca/toyota/corolla/auto-news/news/th... http://www.enterprisecanadanetwork.ca/_uploads/res... http://www.isn.ethz.ch/php/collections/coll_gladio... http://www.isn.ethz.ch/php/documents/collection_gl... http://www.hls-dhs-dss.ch/textes/f/F011196.php http://www.adnkronos.com/AKI/English/Religion/?id=... http://www.allempires.com/article/index.php?q=ital... http://www.antimafiaduemila.com/content/view/20052... http://www.art-and-archaeology.com/roman/painting.... http://www.bbc.com/news/world-europe-17433142